[Bệnh học] Các thể ung thư vú đặc biệt ở nữ trên lâm sàng

Ung thư Paget

Tổn thương cơ bản thường là ung thư thể ống thâm nhiễm, thường được phân loại rõ. Biểu mô núm vú bị thâm nhiễm, nhưng thay đổi về kích thước núm vú ít và có thể không sờ thấy khối u. Triệu chứng đầu tiên thường là ngứa hoặc đau rát núm vú cùng với ăn mòn bề mặt hoặc loét. Chẩn đoán có được bằng sinh thiết chỗ án mòn.

Ung thư Paget ít gặp (khoảng 1% của tất cả ung thư vú) nhưng quan trọng bởi vì bệnh biểu hiện như là lành tính. Bệnh thường được chẩn đoán và điều trị như bệnh ngoài da hoặc nhiễm khuẩn, dẫn đến phát hiện muộn. Khi tổn thương chỉ là những thay đổi ở núm vú, nguy cơ di căn hạch nách khoảng 5% và tiên lượng tốt. Khi khối u vú cùng xuất hiện thì tỉ lệ di căn hạch nách tăng lên và giảm đáng kể khả năng chữa khỏi bệnh bằng phẫu thuật hoặc phương pháp điều trị khác.

Ung thư dạng viêm

Đây là dạng ác tính nhất của ung thư vú và chiếm dưới 3% tất cả các trường hợp. Các triệu chứng lâm sàng bao gồm u phát triển nhanh, đôi khí là một khối to làm vú to lên và đau. Lớp da trên bề mặt trở nên đỏ, phù nề và nóng. Đôi khi có khối u không rõ ràng vì khối u thâm nhiễm lan toả vào vú. Chẩn đoán được xác định khi quầng đỏ chiếm hơn 1/3 da của vú và sinh thiết cho kết quả xâm lấn vào mạch bạch huyết dưới da. Có những nhầm lẫn với viêm nhiễm, vì có triệu chứng viêm gây ra bởi ung thư biểu mô xâm lấn vào mạch bạch huyết da làm phù nề và xung huyết. Nếu bác sĩ nghi ngờ viêm nhiễm nhưng tổn thương không đáp ứng nhanh với kháng sinh (1- 2 tuần) thì cần tiến hành sinh thiết. Di căn có xu hướng xuất hiện sớm và lan rộng và do nguyên nhân này mà ung thư dạng viêm ít khi chữa khỏi. Cắt bỏ tuyến vú hiếm khi được chỉ định. Điều trị bằng tia xạ, hormon và hóa trị liệu chống ung thư là các phương pháp dường như có vẻ có giá trị nhất.

Ung thư vú xuất hiện trong thời gian mang thai hoặc cho con bú

Chỉ có 1- 2% ung thư vú xuất hiện trong thời gian mang thai hoặc cho con bú. Ung thư vú trong trường hợp có thai chiếm xấp xỉ 1/3000. Chẩn đoán thường muộn bởi những thay đổi của cơ thể ở vú có thể che đậy bản chất thực của tổn thương. Những thay đổi này có thể làm cho cả bệnh nhân và bác sĩ suy luận sai về các triệu chứng và trâm trễ trong chỉ định sinh thiết. Khi khối u hạn chế ở ngực tỉ lệ sống sau 5 năm sau cắt bỏ vú khoảng 70%. Di căn hạch nách có ở 60 – 70% bệnh nhân và đối với họ tỉ lệ sống 5 năm sau khi cắt vú chỉ 30 – 40%. Trường hợp đang mang thai (hoặc cho con bú) không có chống chỉ định phẫu thuật và điều trị dựa trên giai đoạn bệnh như là ở những phụ nữ không có thai (hoặc không cho con bú). Tỉ lệ sống sau điều trị nói chung được cải thiện vì hiện nay ung thư được chẩn đoán ở phụ nữ có thai sớm hơn trước đây.

Ung thư vú hai bên

Trên lâm sàng hiện tượng ung thư vú hai bên cùng một lúc xảy ra ở dưới 1% các trường hợp, nhưng có 5 – 8% xảy ra ung thư ở vú bên kia muộn hơn. Ung thư vú hai bên hay xảy ra ở phụ nữ dưới 50 tuổi và hay xảy ra hơn khi khối u vú đầu tiên là loại tiểu thùy. Tỉ lệ mắc ung thư vú thứ hai tăng khoảng 0,5% mỗi năm cùng thời gian bệnh nhân sống sau ung thư đầu tiên.

Ở bệnh nhân ung thư vú, cần chụp X quang vú trước khi bắt đầu điều trị và chụp định kỳ sau điều trị để tìm ung thư thể ẩn ở vú bên đối diện. Không sinh thiết vú bên đối diện.

Ung thư không xâm lấn

Ung thư không xâm lấn có thể xảy ra ở trơng lòng ống tuyến (ung thư thể ống tại chỗ) hoặc trong tiểu thuỳ (ung thư tiểu thuỳ tại chỗ). Trong khi ung thư thể ống tại chỗ có biểu hiện như một ung thư sớm thì ung thư tiểu thuỳ tại chỗ có thể gọi là tân sinh tiểu thuỳ. Ung thư thể ống tại chỗ có xu hướng ở một bên vú và phần lớn tiến triển thành ung thư xâm lấn. Xấp xỉ 40 – 60% phụ nữ có ung thư thể ống tại chỗ được điều trị chỉ bằng sinh thiết sẽ phát triển ung thư xâm lấn trong cùng bên vú. Tuy vậy ung thư tiểu thuỳ tại chỗ biểu hiện như một yếu tố nguy cơ khả năng phát triển ung thư xâm lấn ở vú bên kia. Có xấp xỉ 20% phụ nữ có ung thư tiểu thuỳ tại chỗ sẽ phát triển ung thư xâm lấn (thường là thể ống). Ung thư xâm lấn này xảy ra cùng tàn suất ở vú bên kia.

Việc điều trị những tổn thương nội ống đang còn tranh cãi. Ung thư thể ống có thể điều trị bằng cắt vú toàn bộ hoặc bảo tồn vú và cắt u rộng có hoặc không điều trị tia xạ. Ung thư tiểu thuỳ tại chỗ có thể xử lý tốt nhất bằng cách theo dõi chặt. Tuy nhiên nếu bệnh nhân không chấp nhận nguy cơ cao bị ung thư vú có thể yêu cầu cắt vú toàn bộ cả hai bên. Di căn hạch nách ít gặp.

0 0 đánh giá
Đánh giá bài viết
Theo dõi
Thông báo của
guest

0 Góp ý
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận