[Nhi khoa] Đặc điểm hệ tiêu hoá trẻ em

Hê tiêu hoá bao gồm: Miệng, thực quản, dạ dày, ruột, gan và tụy.

Miệng và các bộ phân trong khoang miệng

Khoang miệng trẻ sơ sinh tương đối nhỏ vì

Xương hàm trên phát triển kém.

Hòn mỡ Bichat tương đối lớn.

Lợi có nhiều nếp nhăn.

Cơ môi và các cơ nhai phát triển mạnh.

Lưỡi tương đối dày và rộng, có nhiều nang tân và gai lưỡi.

Những yếu tố trên có tác dụng rất lớn đối với động tác bú của trẻ: Khi bú khoang miệng và lưỡi hoạt động như một pít tông.

Niêm mạc miệng mỏng, mềm mại, có nhiều mao mạch, nhưng tương đối khô. Đây là điều kiện tốt cho nấm Candida albicance phát triển (tưa miêng).

Ở trẻ sơ sinh, thường thấy những hạt màu trắng hoặc vàng nhạt, to gần bằng hạt đỗ xanh, mật độ cứng, nằm dọc hai bên đường giữa vòm miệng (hạch Bonneur). Đó là các nang chứa dịch hoặc những tế bào bong ra của tuyến niêm dịch, chúng sẽ tự mất đi trong những tuần đầu.

Tuyến nước bọt

Tuyến nước bọt của trẻ sơ sinh còn ở trạng thái phôi thai và đến tháng thứ 3 – 4 tuyến nước bọt mới phát triển hoàn toàn, do vậy trong mấy tháng đầu sau đẻ, niêm mạc miệng của trẻ thường khô.

Ở trẻ em, nước bọt trung tính hoặc toan tính nhẹ (pH = 6 – 7,8), còn ở người lớn thì pH = 7,4 – 8.

Trong nước bọt có các men tiêu hoá tinh bột: Amylaza, Ptyalin, Mantaza.

Hoạt tính của các men trong nước bọt tăng dần theo tuổi.

Trẻ 4 – 6 tháng có hiện tượng chảy nước bọt sinh lý, do mầm răng kích thích vào dây thần kinh V gây nên phản xạ tăng tiết nước bọt và một ph ần do trẻ chưa biết nuốt nước bọt.

Trẻ sơ sinh chưa có răng. Răng sữa bắt đầu mọc từ tháng thứ 6 và kết thúc vào tháng 24 – 30, khi trẻ mọc đủ 20 răng sữa. Răng vĩnh viễn sẽ bắt đầu mọc khi trẻ lên 6 tuổi và chúng sẽ thay thế dần răng sữa.

Thực quản

Thực quản trẻ sơ sinh có hình phễu.

Thành thực quản của trẻ mỏng.

Niêm mạc thực quản mỏng, có ít tổ chức tuyến, nhiều mạch máu.

Cơ và tổ chức đàn hồi phát triển yếu.

Chiều dài thực quản thay đổi theo tuổi

Trẻ sơ sinh: 10 – 11 cm.

Trẻ 1 tuổi: 12 cm.

Trẻ 5 tuổi: 16 cm.

Trẻ 10 tuổi: 18 cm.

Trẻ 15 tuổi: 20 cm.

Người lớn: 25 – 32 cm.

Để tính khoảng cách từ răng đến tâm vị có thể dựa theo công thức:

X(cm) = 1/5 chiều cao + 6,3 cm

Đường kính lòng thực quản của trẻ em tăng theo lứa tuổi

Trẻ sơ sinh: 0,7cm.

Trẻ < 2 tháng: 0,8 – 0,9cm.

Trẻ 2 – 6 tháng: 0,9 – 1,2cm.

Trẻ 9 – 18 tháng: 1,2 – 1,5cm.

Trẻ 2 – 12 tuổi: 1,3 – 1,7cm.

Chúng ta cần biết chiều dài và đường kính thực quản theo từng lứa tuổi để chọn các ống thông dạ dày cho thích hợp.

Dạ dày

Dạ dày của trẻ sơ sinh hình tròn, lúc 1 tuổi có hình dài thuôn thuôn và sau 7 tuổi có hình dáng như người lớn.

Dạ dày của trẻ nhỏ nằm cao, nằm ngang. Đến 12 tháng thì dạ dày bắt đầu nằm đứng, sau 7 – 11 tuổi giống người lớn.

Trẻ nhỏ: phần đáy, hang vị và tổ chức tuyến chưa phát triển.

Dung tích dạ dày

Trẻ sơ sinh: 30 – 35ml.

Trẻ 3 tháng: 100ml.

Trẻ 1 tuổi: 250ml.

Cơ dạ dày của trẻ nhỏ phát triển còn yếu, nhất là cơ thắt tâm vị. Còn cơ thắt môn vị thì phát triển tốt và đóng chặt, do đó trẻ rất dễ nôn trớ sau khi ăn.

Độ pH trong dịch vị tuỳ theo lứa tuổi

Thời kỳ bú mẹ: pH: 5,8- 3,8.

Trẻ càng lớn độ toan càng tăng.

Người lớn pH = 1,5 – 2.

Độ toan toàn phần và HCl tự do của trẻ em đều thấp hơn so với người lớn.

Dịch vị của trẻ gồm các men: Pepsin, Labferment, Catepsin, Lipase.

Các men Pepsin, Labferment, Catepsin đều có tác dụng tiêu hoá protid, nhưng Labferment là men có ý nghĩa rất lớn đối với trẻ em vì nó là men hoạt động trong môi trường pH = 6 – 6,5, còn Catepsin thì hoạt động trong môi trường pH = 3,5 – 4, Pepsin (chuyển protid thành pepton) lại hoạt động trong môi trường pH = 1,5 – 2,5. Sự bài tiết các men phụ thuộc nhiều vào tình trạng sức khoẻ của trẻ.

Lipase trong dịch vị cùng với men này của sữa mẹ đã giúp cho việc tiêu hoá mỡ của sữa mẹ có thể thực hiện được một phần ngay từ dạ dày.

Tại dạ dày, 25% sữa mẹ được hấp thu, trong đó có cả protein và lipid. Còn các loại thức ăn khác (kể cả sữa bò) chỉ hấp thu được đường.

Thời gian lưu thức ăn ở dạ dày phụ thuốc vào tính chất thức ăn:

Sữa mẹ lưu ở dạ dày từ 2 – 3 giờ.

Sữa bò lưu ở dạ dày lâu hơn, từ 3 – 4 giờ.

Thức ăn có nhiều mỡ sẽ lưu ở dạ dày lâu hơn nữa.

Do đó các bữa ăn của trẻ nên cách nhau từ 2,5 – 3 giờ.

Ruột

Ruột của trẻ em tương đối dài hơn so với người lớn

Ruột của trẻ em dài gấp 6 lần chiều dài cơ thể, trong khi ruột của người lớn chỉ dài gấp 4 lần.

Ruột của trẻ sẽ dài ra khi bị giảm trương lực cơ và thường gặp trong các bệnh như suy dinh dưỡng, còi xương, ỉa chảy kéo dài.

Niêm mạc ruột có nhiều nếp nhăn, nhiều lông ruột, nhiều mạch máu, do đó dễ hấp thụ, song cũng tạo điều kiện cho vi khuẩn dễ xâm nhập.

Mạc treo ruột dài, manh tràng ngắn dễ di động nên

Dễ bị xoắn ruột.

Vị trí ruột thừa không cố định. ở trẻ dưới 1 tuổi, ruột thừa thường nằm sau manh tràng.

Trực tràng dài, cơ yếu, niêm mạc lỏng lẻo nên dễ bị sa trực tràng khi ho nhiều, rặn nhiều.

Thức ăn được tiêu hoá ở ruột nhờ tác dụng của các men trong dịch ruột, dịch tụy, mật

Tiêu hoá Protein gồm có các men: Trypsin Enterokinaza (hoạt hoá tripsinogen), Erepsin (chuyển pepton thành a.amin)

Tiêu hoá mỡ gồm có men Lipase.

Tiêu hoá Glucid gồm các men:

Mantase (chuyển đường đôi thành 2 đường đơn).

Lactase (chuyển đường trong sữa mẹ thành glucose và lactose).

Invectin (chuyển hoá saccarose thành Glucose và Fructose) và có ít Amylase (phân huỷ tinh bột).

Đặc điểm về vi khuẩn ở đường ruột trẻ em

Giai đoạn vô khuẩn: trong vòng 8 giờ sau đẻ, trong dạ dày và ruột của trẻ em hầu như không có vi khuẩn.

Sau đẻ 8 giờ, vi khuẩn xâm nhập vào ruột qua miệng, hô hấp và trực tràng, do đó mức độ và thành phần vi khuẩn phụ thuộc nhiều vào môi trường. Đó là các vi khuẩn như tụ cầu, phế cầu, liên cầu, cầu khuẩn ruột, trực khuẩn ruột, trực trùng bifidus, trực trùng perfringens, trực trùng acidophilus…

Đến ngày thứ 3 sau đẻ, lượng vi trùng trong ruột tăng rất cao (giai đoạn nhiễm trùng phát triển).

Sau đó chuyển sang một giai đoạn khác phụ thuộc vào chế độ ăn của trẻ:

Trẻ bú mẹ: vi khuẩn Bifidus chiếm ưu thế và ức chế E. Coli.

Trẻ ăn nhân tạo: có nhiều vi khuẩn E.coli.

Vi khuẩn ở ruột có tác dụng tổng hợp các vitamin nhóm B, vitamin K và làm tăng tiêu hoá đạm, mỡ, đường, sinh ra khí sunfua hydro, tạo nên mùi hôi điển hình của phân.

Tụy

Trẻ sơ sinh tuỵ có hình lăng trụ (3 mặt), phần đầu tương đối nhỏ hơn phần thân và đuôi. Khi 5 – 6 tuổi có hình dáng giống như người lớn.

Trọng lượng tụy tăng dần theo tuổi

Trẻ sơ sinh: 2 – 4g.

Trẻ 5-10 tuổi: 30 – 36g.

15 tuổi: 50g.

Tụy có chức năng nội tiết và ngoại tiết

Chức năng nội tiết: Tụy tiết vào máu insulin, tham gia vào quá trình vận chuyển Glucose từ máu vào trong tế bào.

Chức năng ngoại tiết: Tụy tiết vào ruột các men Tripsin (chuyển hoá đạm) hoạt động trong môi trường pH = 8, Lipase (chuyển hoá mỡ) và các men chuyển hoá tinh bột như Amylase, Maltase.

Gan

Gan của trẻ sơ sinh tương đối to, chiếm 4,4% trọng lượng cơ thể, trong khi gan của người lớn chỉ chiếm 2,4 – 2,8%.

Trẻ sơ sinh: Thuỳ trái của gan to hơn thuỳ phải, sau này thuỳ phải phát triển nhanh hơn, nên sẽ to hơn.

Gan trẻ nhỏ dễ di động, do đó dễ bị xê dịch khi có nước ở màng phổi hoặc có khối u đẩy.

Tổ chức gan có nhiều mạch máu, tế bào phát triển chưa đầy đủ, còn nhiều hốc sinh sản máu.

Chức năng gan ở trẻ nhỏ chưa hoàn thiện, dễ có phản ứng khi trẻ bị nhiễm trùng, nhiễm độc và dễ bị thoái hoá mỡ.

Phân của trẻ em

Phân su

Phân su là một chất màu xanh thâm, không mùi, có từ tháng thứ 4 trong bào thai.

Được trẻ đi ỉa ra trong ngày đầu sau đẻ.

Nó gồm những chất tiết của ống tiêu hoá (các tế bào thượng bì, bilirubin, cholesterol, những giọt mỡ, axit béo, những phần tử của vernix caseosa, xà phòng vôi, lông tơ, không có vi khuẩn).

Phân của trẻ bú mẹ

Có màu vàng ánh (do bilirubin chứ không phải là stercobilin như ở người lớn), sền sệt, mùi chua và có phản ứng toan.

Số lượng phân chiếm khoảng 1 – 3% lượng sữa bú vào: 25g/ngày.

Số lần ỉa trong một ngày

Trong tuần đầu sau đẻ: 4 – 5 lần.

Trẻ dưới 1 tháng tuổi: 2 – 3 lần.

Trẻ trên 1 tháng tuổi: 1 – 2 lần.

Trẻ trên 1 tuổi: 1 lần

Phân của trẻ ăn sữa bò

Có màu vàng nhạt (do bilirubin bị oxy hoá), đặc, dẻo, có mùi nặng hơn phân của trẻ bú mẹ và có phản ứng trung tính.

Số lượng phân nhiều hơn so với trẻ bú mẹ, tới 100g /ngày.

Số lần đi ỉa trong một ngày ít hơn trẻ bú mẹ.

0 0 đánh giá
Đánh giá bài viết
Theo dõi
Thông báo của
guest

0 Góp ý
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận